Thứ Hai, 12 tháng 3, 2012

ĐẤT NƯỚC CÓ TỪ BAO GIỜ ?


Thực ra, Đất-Nước (từ ghép) và Nước là một khái niệm địa lý và chính trị cực kỳ mới mẻ, xuất hiện khoảng đầu thế kỷ thứ 10, sau khoảng một ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ. (Tức là sau khi chữ Âu và chữ Lạc xuất hiện rất lâu).
Một nghìn năm đô hộ là rất dài, đủ nô dịch cả một dân tộc, đủ để một dân tộc quên đi gốc gác của mình. Không tin nhìn vào Bắc Hàn mấy chục năm vừa qua thì biết. Thế nhưng dân tộc sống ở cái vùng đất, mà cuối cùng được gọi là An Nam Đô Hộ Phủ, không nguôi ý chí li khai và rồi giành được tự chủ và đi đến độc lập.
Những chính trị gia ly khai đầu tiên, cha con Khúc Thừa Dụ  - Khúc Hạo cùng với chỉ huy quân đội của họ là Dương Đình Nghệ, đã xây dựng một thể chế tập quyền đầu tiên ở cho người Việt ở nước Việt ở đầu thế kỷ thứ 10. Cải cách hành chính, cải cách chính quyền của Khúc Hạo, kết hợp với chính sách ngoại giao với phương Bắc của Khúc Thừa Dụ là manh nha của một chính quyền độc lập dành cho dân bản xứ.
Để làm được việc này, họ cần các khái niệm địa lý chính trị hoàn toàn mới để “dân vận” người dân đứng về phe ly khai, chống lại triều đình phương Bắc vốn đã tỏa bóng thôn tính xuống cả ngàn năm (đến tận bây giờ vẫn có kẻ thần phục Bắc Kinh, nữa là hồi đấy).
Đối lập với các khái niệm Giang Sơn, Sơn Hà Xã Tắc vốn để chỉ đất của thiên tử phương bắc, Khúc Hạo và Dương Đình Nghệ đã nghĩ ra khái niệm Đất Nước. Để đối nghịch với Quốc Gia (chỉ/thuộc vua Tàu, triều đình tàu), Khúc Hạo và Dương Đình Nghệ đã nghĩ ra từ Nước Nhà. Từ đó chữ Quốc trong chữ Hán được dịch ra tiếng Việt cổ là Nước. Còn danh từ Nước Nam hoặc Nước Việt, có lẽ là các từ mới được phe ly khai dung để gọi vùng đất An Nam Đô Hộ. Cho đến khi hoàn toàn độc lập, Nước Việt có vị hoàng đế đầu tiên của riêng mình, thì mới thôi sử dụng cách gọi này và gọi tên nước là Đại Cồ Việt.
Dương Đình Nghệ quê Thanh Hóa. Cha con Khúc Thừa Dụ Khúc Hạo cũng có thể ở Thanh Hóa (có chỗ nói ở Hải Dương). Họ quá quen thuộc với người Mường Việt cổ ở vùng này. Và đương nhiên là họ biết sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước (Te Tấc Te Đác), một sử thi kể về sự ra đời của thế giới (đất và nước từ vũ trụ hỗn mang) và các dân tộc. (Phát tích của sử thi này, được coi là ở Thanh Hóa, cũng là nơi sưu tầm được sử thi dài hàng ngàn câu này). Có lẽ đây chính là “triết thuyết” để  các nhà chính trị và tướng lĩnh li khai sử dụng để xây dựng các khái niệm Đất Nước và Nước Nhà.
Bởi Nước là từ chữ nước nên về sau chữ nôm đã ghi chữ Nước này với bộ thủy và biểu âm nhược (*).
Rồi quân Nam Hán xâm chiếm. Dương Đình Nghệ cầm quân. Đất Việt lúc đó loạn lạc, các phe phái đánh hau, một lần nữa Dương Đình Nghệ lại sử dụng các khái niệm chính trị mới mẻ là Đất-Nước, Nước- Nhà để kêu gọi đồng thuận. Các nha tướng của ông, thấm nhuần tư tưởng chính trị mới, sau này một người trở thành vua (Ngô Quyền), một người khác là Đinh Công Trứ thì sinh ra Đinh Bộ Lĩnh.
Ngô Quyền là vị vua giành độc lập (đầu tiên) sau 1000 năm bắc thuộc và mở ra thời kỳ độc lập lâu dài cho Việt Nam. Sau Ngô Quyền chính là Đinh Bộ Lĩnh. Ngô Quyền rời đô từ Đại La (vốn là cơ sở hành chính của Tàu) về Cổ Loa là có ý khôi phục lại chủ quyền của dân bản địa (dân Lạc) và đến thời Đinh Bộ Lĩnh, ông xưng đế (giải tán triệt để ảnh hưởng của hoàng đế Trung Hoa), đặt tên nước là Đại Cồ Việt (Cồ là tiếng Việt cổ, chỉ sự mạnh mẽ, xen vào giữa cái tên).
Sau thời Ngô Quyền xưng vương thì cũng là lúc chữ Nôm bắt đầu được hoàn chỉnh. Từ vựng hẳn không thể thiếu từ Nước của Nước Nhà.
Ngày nay, Nước đã trở thành một từ quan trọng, nó chỉ một quốc gia có chủ quyền (Nation), biến thể Nhà Nước là để chỉ một thể chế chính trị hiện đại (State), còn Đất Nước mang hàm ý thân thuộc hơn (Country).  Trong lúc ấy, từ nước vẫn tiếp tục mang nghĩa là nước (sông, suối, biển) như từ thủa hồng hoang đẻ đất đẻ nước.
Cám ơn các cụ Khúc Hạo và Dương Đình Nghệ, đã tạo ra không chỉ những từ mới, mà còn là cả khái niệm mới, đến tận bây giờ, sau hơn 1000 năm, vẫn còn ý nghĩa thời sự. Xin trả lại quyền thân nhân (tác quyền) hai chữ Đất-nước và Nước-nhà về cho các cụ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét